Hạ đường huyết là khi lượng đường trong m.áu giảm xuống dưới mức bình thường. Đây là tình trạng cấp cứu vì có thể diễn biến đến hôn mê và gây t.ử v.ong cho bệnh nhân.
Các dấu hiệu hạ đường huyết
Biểu hiện chung khi hạ đường huyết là bệnh nhân cảm thấy mệt đột ngột không giải thích được, chóng mặt, đau đầu, lo âu, chân tay nặng nề, yếu và kèm theo cảm giác đói cồn cào, nóng rát vùng dạ dày. Bệnh nhân có biểu hiện da xanh tái; vã mồ hôi, thường ở lòng bàn tay, trán, nách; run tay; hồi hộp đ.ánh trống ngực; lo âu hốt hoảng mất bình tĩnh. Các dấu hiệu khác là nhịp tim nhanh, có thể có cơn đau thắt ngực, cảm giác nặng ngực vùng tim. Dấu hiệu thần kinh: nhìn mờ, nhìn đôi, hoa mắt, nặng có thể có co giật, tổn thương dây thần kinh gây liệt, rối loạn cảm giác, vận động.
Nếu ở giai đoạn hạ đường huyết nhẹ bệnh nhân tỉnh táo, có biểu hiện nhịp tim nhanh, run tay, đ.ánh trống ngực, vã mồ hôi. Ở mức trung bình có biểu hiện thần kinh như giảm độ tập trung, lú lẫn, lơ mơ. Nếu nặng sẽ co giật, mất ý thức, hôn mê.
Một số biểu hiện của hạ đường huyết.
Chỉ số đường huyết bình thường và hạ đường huyết
Chỉ số đường huyết là nồng độ glucose – một loại đường đơn – có trong m.áu. Đường huyết thường được đo bằng milligrams trên deciliter (mg/dL) hoặc millimoles trên liter (mmol/L). Đường huyết thường tăng lên đáng kể sau khi ăn và giảm nếu bạn tập thể dục hoặc vận động thường xuyên.
Đường huyết lúc đói: được đo lần đầu vào buổi sáng, khi chưa ăn hoặc uống bất kỳ loại thực phẩm nào. Chỉ số đường huyết lúc đói ở khoảng giữa 70mg/dL (3.9mmol/L) và 92mg/dL (5.0mmol/L) là bình thường. Qua quá trình nghiên cứu, các chuyên gia y tế thấy rằng những người có đường huyết lúc đói trong khoảng trên không phát triển bệnh đái tháo đường trong vòng 10 năm tới hoặc lâu hơn.
Đường huyết sau ăn: Người bình thường khỏe mạnh có chỉ số đường huyết sau ăn là dưới 120mg/dL (6.6mmol/L), được đo trong vòng 1 – 2 giờ sau ăn.
Đường huyết thấp: Khi lượng đường trong m.áu dưới 70mgdL (3.9mmol/L) thì được coi là đường huyết thấp. Đây là tình trạng nguy hiểm và cần được cấp cứu. Sự tụt giảm đường huyết vẫn có thể tiếp tục diễn ra và người bệnh có thể rơi vào trạng thái hôn mê, tổn thương não.
Hạ đường huyết là khi glucose m.áu giảm dưới 50mg/dl (2,7mmol/l). Trên lâm sàng, hạ đường huyết xảy ra khi: Người bệnh tiểu đường sử dụng thuốc hạ đường huyết hay tiêm insulin quá liều; bỏ bữa sau dùng thuốc; tập luyện khi gắng sức; các bệnh lý cấp tính như nhiễm khuẩn, hay sự thay đổi cơ thể như có thai… Triệu chứng hạ đường huyết thường xảy ra khi đói hoặc xa các bữa ăn, tương ứng thời gian tác dụng tối đa của thuốc (insulin hoặc sulfamid hạ đường huyết) đối với bệnh nhân tiểu đường. Triệu chứng trên cải thiện nhanh khi cung cấp glucose tức thời.
Coi chừng bị hạ đường huyết mức độ nặng
Hạ đường huyết mức độ nặng có thể xảy đến đột ngột hoặc xảy ra trên nền các biểu hiện lâm sàng của hạ đường huyết nhẹ. Trong giai đoạn này biểu hiện lâm sàng chủ yếu là về tâm thần kinh, như: sững sờ, đờ đẫn, cơn trầm cảm với xu hướng t.ự s.át, kích động, hoang tưởng, ảo giác, mất ý thức thoáng qua; cứng hàm (dấu hiệu quan trọng dễ nhầm với uốn ván); động kinh toàn thể hoặc khu trú, liệt nửa người, khu trú, rối loạn tiểu não – t.iền đình như chóng mặt, rối loạn vận động (dễ nhầm tai biến mạch m.áu não). Giai đoạn này sử dụng glucose truyền qua đường tĩnh mạch trực tiếp hơn là cho đường uống, bệnh nhân sẽ hồi phục nhanh.
Đề phòng hôn mê do hạ đường huyết
Triệu chứng hôn mê do hạ đường huyết có khởi đầu thường không đột ngột, kèm co cơ, co giật, tăng phản xạ gân xương, co đồng tử, cứng hàm, đổ nhiều mồ hôi, kèm nét mặt đỏ bừng. Các triệu chứng này có thể dễ hồi phục sau khi truyền glucose sớm trước khi qua giai đoạn không phục hồi (với hôn mê sâu, thương tổn não không hồi phục và t.ử v.ong nếu hạ glucose m.áu nặng và kéo dài). Do vậy, khi bệnh nhân có dấu hiệu hôn mê do hạ đường huyết thì cần cấp cứu ngay để tránh biến chứng nặng nề, thậm chí dẫn đến t.ử v.ong.
Làm gì khi thấy dấu hiệu hạ đường huyết?
Ngay khi có dấu hiệu hạ đường huyết nhẹ như mệt lả, buồn ngủ, chóng mặt, vã mồ hôi, đói bụng, co thắt thượng vị cần cho uống nước đường, sữa có đường… cho đến khi khỏe lại. Hoặc ngậm 3 viên kẹo ngọt, đợi sau 5 phút, nếu vẫn chưa bớt, có thể uống nước đường lần nữa.
Phòng tránh thế nào?
Để phòng bệnh, mọi người không nên nhịn đói, hoặc để cơ thể bị đói quá lâu, không nên nhịn ăn mà hoạt động thể lực quá mức. Nhất thiết không được bỏ bữa sáng, đặc biệt là người già, t.rẻ e.m, những người có bệnh mạn tính, cơ thể yếu. Cần ăn uống điều độ, đúng giờ, không nên uống rượu, nhất là lúc bụng đói. Nên ăn nhẹ hoặc uống một ly sữa trước khi tập thể thao.
Riêng đối với bệnh nhân đái tháo đường không nên tự ý dùng insulin mà phải tuân thủ theo chỉ định của bác sĩ. Những bệnh nhân này cũng cần có chế độ tập luyện thể lực điều độ, nên mang sẵn những thứ như kẹo ngọt để khi có dấu hiệu hạ đường huyết cần sử dụng ngay. Hạn chế uống rượu đặc biệt là uống rượu mà không ăn hoặc ăn ít.
BS. Phương Dung
Theo SK&ĐS
Phương pháp đơn giản giúp người bệnh tiểu đường kiểm soát tốt đường huyết
Ngoài chế độ dinh dưỡng và thuốc điều trị, vận động thể lực cũng giúp các bệnh nhân tiểu đường kiểm soát lượng đường huyết rất tốt mà không tốn t.iền.
Những khuyến cáo khi bệnh nhân tiểu đường tập thể dục?
Các bác sĩ Bệnh viện Trưng Vương, TP HCM khẳng định người mắc tiểu đường type 2 thường có đặc điểm: Béo phì, tăng huyết áp, rối loạn mỡ trong m.áu, và đề kháng insulin. Phần lớn các rối loạn này đều giảm bớt nếu duy trì chế độ luyện tập thường xuyên.
Với bệnh nhân tiểu đường, việc luyện tập thể lực đúng sẽ giúp cải thiện các yếu tố nguy cơ tim mạch, rối loạn đường huyết, giảm mỡ trong m.áu, huyết áp. Vận động đúng cách còn giúp bệnh nhân tăng nhạy cảm với insulin; Kiểm soát cân nặng và giảm mô mỡ; Giúp cho xương chắc khỏe, khớp linh hoạt, cơ dẻo dai, giảm nguy cơ té ngã; Giúp người bệnh tự tin, giảm căng thẳng; Giảm nguy cơ bệnh tim mạch và đột tử.
Hội Nội tiết và đái tháo đường Việt Nam khuyên bệnh nhân nên tập luyện, phối hợp các hình thức tập luyện khác nhau, tập nặng tăng dần, tập đều đặn và thường xuyên. Khi mới bắt đầu, hãy tập các động tác nhẹ và chia nhỏ mỗi lần 10 phút. Khi cơ thể đã thích nghi, tăng dần cường độ lên 30 phút/ngày và duy trì mỗi ngày.
Việc lựa chọn thời điểm tập trong ngày của bệnh nhân tiểu đường tùy thời gian làm việc trong ngày nhưng bác sĩ khuyên không tập ngay sau bữa ăn chính, không tập quá xa bữa vì nguy cơ hạ đường huyết, tránh đỉnh tác dụng của insulin nếu đang dùng insulin tiêm. Nếu tập ngoài trời nên tránh thời điểm quá nóng hoặc quá lạnh.
Trước khi tập chính, bệnh nhân nên có giai đoạn khởi động 20-30 phút (làm nóng), tập các động tác nhẹ hay tập giãn cơ tại chỗ. Sau buổi tập cần có giai đoạn thư giãn (làm nguội) 5-10 phút, chủ yếu là tập các động tác nhẹ hay tập giãn cơ tại chỗ.
Bệnh nhân tiểu đường không nên tập nếu đường huyết>250 mg/dl và xê-tôn niệu dương tính; đường huyết 170 mmHg hay tụt huyết áp; đang bị sốt, n.hiễm t.rùng cấp…
Khi tập, bệnh nhân lưu ý không tập đi trên nền đá cứng; Chọn giầy mềm, không trơn trượt; không làm tổn thương bàn chân, luôn kiểm tra bàn chân sau mỗi buổi tập; Nên uống nhiều nước trước và sau khi tập tránh để cơ thể mất nước; Mang theo đường, kẹo hay thức ăn ngừa hạ đường huyết… Các bác sĩ cảnh báo, tình trạng hạ đường huyết đôi khi còn nguy hiểm hơn tăng đường huyết ở người bệnh đái tháo đường.
Đối với người bệnh tiểu đường có biến chứng, có bệnh lý kèm theo… cần tham khảo ý kiến của bác sĩ trước khi tập cho phù hợp.
Nếu tập không đúng, không phù hợp với sức khỏe thì người bệnh đái tháo đường có thể gặp các nguy cơ như: Đau ngực do gắng sức; huyết áp quá cao hay quá thấp; tăng hoặc hạ đường huyết quá mức; làm nặng hơn tổn thương đáy mắt, xuất huyết võng mạc; làm tăng tiểu đạm; loét chân, tổn thương gân, xương và khớp.
Bệnh nhân tiểu đường có thể tập với nhóm bài chịu lực như đi bộ, chạy bộ, khiêu vũ… – (Ảnh minh hoạ)
Các bài tập phù hợp với người tiểu đường
Hiện có khoảng 5 triệu người Việt Nam sống chung với tiểu đường và hàng triệu người t.iền tiểu đường nhưng không biết (khoảng 70%). Trang suckhoetoandan.vn – trang thông tin chính thức của Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế) dẫn thông tin cho thấy, bệnh nhân đái tháo đường có thể tập các bài tăng sức bền với tác dụng tăng cường hoạt động tim mạch và hô hấp, cải thiện chức năng tim phổi và huyết áp, giảm đường huyết, mỡ m.áu và giảm trầm cảm. Đây là loại vận động được nhiều người chọn nhất vì dễ tập, an toàn, không cần dụng cụ, có thể tập mọi lúc mọi nơi.
Bệnh nhân có thể tập với nhóm bài chịu lực như đi bộ, chạy bộ, khiêu vũ… Những bệnh nhân tiểu đường biến chứng thần kinh ngoại biên, bệnh lý xương khớp có thể tập nhóm bài không chịu lực như bơi lội, đạp xe, tập tay…
Điều lưu ý là bệnh nhân nên tập mỗi ngày ít nhất 30 phút, trên 5 ngày mỗi tuần. Nếu không có thời gian, có thể chia nhỏ tập nhiều buổi cũng hiệu quả, nhưng tối thiểu 10 phút mỗi buổi.
Nếu muốn tập với các bài tập có cường độ trung bình, bệnh nhân có thể lựa chọn hình thức bơi lội, đạp xe, đi bộ nhanh, khiêu vũ, tenis đôi, bóng chuyền… Muốn nặng hơn, bệnh nhân có thể leo dốc, thang bộ, đạp xe nhanh lên dốc, tenis đơn…
Những bài tập tăng sức cơ sẽ giúp bệnh nhân làm tăng số lượng và khối lượng tế bào cơ, tăng sức mạnh cho cơ, tăng can-xi cho xương; Giúp ổn định đường huyết, giảm mỡ m.áu, tăng dự trữ glycogen trong cơ. Những bài tập này cũng giúp bệnh nhân làm việc nhà dễ hơn, giữ thăng bằng tốt hơn và làm xương chắc khỏe.
Bệnh nhân có thể dùng tạ, nâng vật nặng có sẵn, kéo băng thun, tập máy… Tạ quá nhẹ không có tác dụng, tạ quá nặng làm tăng biến chứng đáy mắt và tim mạch. Nên tăng dần khối lượng tạ tập, nâng 8-10 lần, nghỉ, lập lại 3 lần. Mỗi tuần, bệnh nhân nên tập 3 lần.
Điều đơn giản nhất trong luyện tập vận động thể lực với bệnh nhân đái tháo đường là nên vận động mọi lúc, mọi nơi. Điều này sẽ giúp cơ thể tiêu hao bớt năng lượng dư thừa.
Do đó, bác sĩ Bệnh viện Trưng Vương, TP HCM khuyên bệnh nhân tiểu đường nên thường xuyên vận động khi có thể. Đơn giản như chơi với trẻ, làm việc nhà, rửa xe, đậu xe xa nơi mua sắm, đi thang bộ, thay vì đứng một chỗ để nghe điện thoại thì vừa nghe vừa đi loanh quanh, không dùng bộ điều khiển ti vi mà nên bấm trực tiếp.
Trong khi tập, để ý các triệu chứng: Hạ đường huyết, đau ngực, choáng váng, nhức đầu, đau hay chấn thương xương khớp. Ngưng tập ngay nếu thấy xuất hiện các dấu hiệu trên.
Theo VTC